Tiểu sử & Binh nghiệp Lê_Trung_Trực

Ông sinh ngày 16 tháng 4 năm 1927 trong một gia đình điền chủ khá giả tại Long Toàn, Cầu Ngang, Trà Vinh, miền tây Nam phần Việt Nam. Thiếu thời, ông học ở trường Tiểu học Cầu Ngang. Khi học lên trên, ông được gia đình gửi đến Cần Thơ và Mỹ Tho học ở trường Tư thục Bassac, Cần Thơ, rồi trường Collège Le Myre de Vilers, Mỹ Tho. Sau đó, được gửi lên Sài Gòn học ở trường Trung học Lycée Petrus Ký. Năm 1947, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Sau đó ông thi vào trường Cao đẳng Công chánh Sài Gòn đến năm 1950 tốt nghiệp là Cán sự Công chánh.

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Hạ tuần tháng 10 năm 1950, thi hành lệnh động viên, từ dân chính ông trúng tuyển nhập ngũ vào Binh chủng Không quân của Quân đội Quốc gia là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp,[2] mang số quân: 47/600.045. Sau đó, ông được gửi đi du học tại trường Võ bị Không quân Salon de Provence, Pháp. Đầu tháng 10 năm 1951, chuyển qua học lớp Phi huấn Hoa tiêu tại trường Phi hành Marrakech, Maroc (thuộc địa của Pháp). Đến cuối tháng 5 năm 1952, tốt nghiệp bằng Hoa tiêu. Đầu tháng 10 cùng năm, ông tốt nghiệp toàn khóa với cấp bậc Thiếu úy. Về nước, là Phi công của Phi đoàn 1 Quan sát Đà Nẵng. Đầu tháng 5 năm 1954, ông được thăng cấp Trung úy tại nhiệm.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Cuối tháng 10 năm 1955, Quân đội Quốc gia Việt Nam được đổi tên, ông chuyển sang phục vụ cơ cấu mới của Đệ nhất Cộng hòa là Quân đội Việt Nam Cộng hòa giữ chức vụ Trưởng phòng hành quân tại Bộ tư lệnh Không quân. Đầu tháng 12 cùng năm ông được thăng cấp Đại úy.

Cuối tháng 1 năm 1957, ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm. Đến tháng 8, ông được chỉ định giữ chức vụ Tham mưu trưởng Không quân. Hai tháng sau, ông được lệnh bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng lại cho Thiếu tá Huỳnh Hữu Hiền.[3] Cuối tháng 10 cùng năm, ông được cử đi du học khóa 58-A tại trường Chỉ huy và Tham mưu Không quân Hoa Kỳ tại Maxwell, Montgomery, Tiểu bang Alabama, tháng 4 năm 1958 mãn khóa. Sau đó, ông học tiếp khóa Điều không tại Fort-Kiler ở Tiểu bang Mississippi. Cuối năm về nước, ông được chỉ định làm Chỉ huy trưởng căn cứ 2 Trợ lực Không quân ở Biên Hòa.

Ngày lễ Quốc khánh của Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1960, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm. Giữa năm 1961, ông chuyển về Sài Gòn giữ chức vụ Chỉ huy trưởng căn cứ 3 Trợ lực Không quân Tân Sơn Nhất. Tháng 9 năm 1962, ông được cử làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang.

Trung tuần tháng 8 năm 1964, ông được thăng cấp Đại tá. Tháng 11 cùng năm, nhận lệnh bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện lại cho Trung tá Phạm Ngọc Sang. Sau đó ông được chỉ định làm Tư lệnh phó Không quân thay thế Đại tá Nguyễn Ngọc Loan được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia.

Giữa năm 1965, ông bàn giao chức vụ Tư lệnh phó lại cho Đại tá Trần Văn Minh. Cùng thời điểm này ông nhận lệnh rời Quân chủng Không quân để chuyển nhiệm vụ về Bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Trưởng phòng 5. Cuối năm 1966, ông được cử làm phó Giám đốc Thương cảng Sài Gòn. Tháng 10 năm 1967, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy phó trường Cao đẳng Quốc phòng.

Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Cuối tháng 1 năm 1973, sau sự kiện ký Hiệp định Paris về đình chiến và ngưng bắn tại chỗ giữa đối phương và Việt Nam Cộng hòa, ông được cử làm Phụ tá cho Trung tướng Đặng Văn Quang Trung tâm trưởng Trung tâm Phối hợp thi hành Hiệp định Paris tại Phủ Tổng thống.